Nông nghiệp là một thuật ngữ rộng cho tất cả mọi thứ liên quan đến trồng trọt và chăn nuôi, để cung cấp thực phẩm và vật liệu mà mọi người có thể sử dụng và thưởng thức. Trồng trọt, bao gồm canh tác đất đai và chăn nuôi, là một phần của nông nghiệp, cũng bao gồm khoa học thực vật .

– Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế

Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt nông nghiệp với công nghiệp. Không tí có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quy mô và phương hướng sản xuất mức độ thâm canh và cả việc tổ chức lãnh thổ phụ thuộc nhiều vào đất đai. Đặc điểm này đòi hỏi trong sản xuất nông nghiệp phải duy trì và nâng cao độ ph cho đất, phải sử dụng hợp lí và tiết kiệm đất.

Cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực đô thị

Nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường…

Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, bởi vì đây là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản… trong đó thuế có vị trí rất quan trọng.

– Sản xuất nông nghiệp có tính mùa vụ

Đây là đặc điểm điển hình của sản xuất nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt. Thời gian sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi tương đối dài, không giống nhau và thông qua hàng loạt giai đoạn kế tiếp nhau. Thời gian sản xuất bao giờ cũng dài hơn thời gian lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm cây trồng hay vật nuôi. Sự không phù hợp nói trên là nguyên nhân gây ra tính mùa vụ. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lí, đa dạng hóa sản xuất (tăng vụ, xen canh, gối vụ), phát triển ngành nghề dịch vụ.

Khái niệm bảo hiểm nông nghiệp là gì ?

BHNN thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ do tại khoản 2 Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi,bổ sung năm 2010) có quy định: “Bảo hiểm phi nhân thọbao gồm: …k) Bảo hiểm nông nghiệp…”.Có thể định nghĩa, bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có đối tượng bảo hiểm là các rủi ro phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn, bao gồm những rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng hóa, nguyên liệu nhà xưởng.

Các loại rủi ro thường gặp trong nông nghiệp:

– Nhóm rủi ro liên quan đến thời tiết: là những rủi ro liên quan tới các hiện tượng thời tiết không được dự đoán và không thể dự đoán.

– Rủi ro liên quan đến sản xuất nông nghiệp: những rủi ro liên quan đến các nhân tố như: sâu bệnh, bệnh dịch ở cây trồng và vật nuôi…

– Rủi ro mang tính kinh tế: những rủi ro liên quan đến biến động của giá nông phẩm và các nguyên liệu đầu vào do sự biến động khó đoán của thị trường.

– Những rủi ro tài chính và hoạt động thương mại: những rủi ro này do sự tác động của các lĩnh vực sản xuất khác tới nông nghiệp.

– Những rủi ro liên quan đến thể chế: là những rủi ro xuất phát từ các chính sách nông nghiệp của nhà nước.

– Rủi ro về môi trường: những rủi ro do tác động tiêu cực của các hoạt động ngoại ứng ảnh hưởng đến môi trường sản xuất nông nghiệp.

2.1. Khái niệm về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

- Nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp có sự ứng dụng những công nghệ mới, tiên tiến trong các quy trình canh tác, sản xuất, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững (Theo Vụ Khoa học Công nghệ – Bộ Nông nghiệp và PTNT)

Nông nghiệp công nghệ cao có các đặc trưng sau:

- Chủ yếu sản xuất trong nhà có mái che với trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, kết hợp nhiều công nghệ tiến bộ

- Môi trường sản xuất được kiểm soát, đảm bảo vệ sinh

- Kỹ thuật canh tác tiên tiến, đồng bộ, có tính chuyên nghiệp cao

- Người quản lý và công nhân sản xuất có kiến thức và trình độ chuyên môn giỏi.

- Sản phẩm có năng suất và chất lượng rất cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước và xuất khẩu

Khái niệm Thông tin cá nhân từ một số góc độ

Ở góc độ ngôn ngữ, trong từ điển Tiếng Việt “thông tin” là “điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi” (dt). Trong đó, “thông” là thông suốt (tt), là giao tiếp, bảo cho biết (đt); “tin” là tin tức (dt); “cá nhân” là “một người riêng biệt” (dt). Trong Tiếng Anh, “thông tin” (information) là kiến thức, tri thức; là dữ liệu, chi tiết về một tình huống, cá nhân, sự kiện …; “cá nhân” là liên quan, thuộc về một người cụ thể (personal). Theo đó, hiểu đơn giản và theo nghĩa rộng nhất, Thông tin cá nhân (Personal information) là những điều, tin tức liên quan, thuộc về một con người riêng biệt.

Ở các góc độ khác, có rất nhiều khái niệm thông tin, TTCN. Theo nghĩa trừu tượng, mang tính triết học, có thể hiểu TTCN là sự phản ảnh các yếu tố tự nhiên, xã hội liên quan đến một cá nhân thông qua giác quan của con người. Gắn với chủ thể thông tin, TNCN được hiểu là thông tin thuộc sở hữu của “tôi”, về “tôi”, trực tiếp đến “tôi”, được gửi/đăng bởi “tôi”, là trải nghiệm của “tôi” và có liên quan đến “tôi”. Ở góc độ vật chất, kỹ thuật, TTCN là những tin tức (news), dữ kiện (facts), dữ liệu (data) liên quan đến một con người nhất định được thu thập, xử lý, lưu trữ, sử dụng, trao đổi thông qua các vật mang tin. Theo các khái niệm này, TTCN được hiểu là tất cả những gì thuộc về, liên quan đến một con người nhất định, được cấu thành bởi hai yếu tố là nội dung thông tin (tin, dữ kiện, dữ liệu) và hình thức thông tin hay vật mang tin (văn bản, tài liệu, bản vẽ, thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu...).

Khái niệm Thông tin cá nhân trong khoa học pháp lý

Thuật ngữ TTCN, DLCN được ghi nhận và trở nên phổ biến trong khoa học pháp lý từ vài thập niên gần đây, khi được tiếp cận trên quan điểm là một vấn đề gắn liền với bảo vệ quyền con người (human rights), cụ thể hơn là quyền riêng tư (rights to privacy). Theo quan điểm này, quyền riêng tư luôn gắn liền với chủ thể quyền là cá nhân, trong khi đó cá nhân lại là chủ thể của thông tin thuộc về, liên quan đến họ nên để bảo vệ quyền riêng tư thì phải bảo vệ TTCN. Tức là, khái niệm TTCN đã được thu hẹp hơn một mức là những thông tin của cá nhân liên quan đến quyền con người, cụ thể hơn là sự riêng tư của cá nhân.

Các nghiên cứu đã chỉ ra, dù quyền riêng tư đã có từ rất lâu nhưng phải đến cuối thế kỷ 19, khi trình độ khoa học, công nghệ phát triển đến mức độ nhất định làm cho thông tin trở thành “tài sản”, truyền thông trở thành “quyền lực thứ tư” và đặt ra những nguy cơ, thách thức mới đối với việc bảo vệ quyền riêng tư thì sự quan tâm đến quyền riêng tư đã tăng lên, vấn đề bảo vệ TTCN, DLCN mới hiện hữu, trở thành vấn đề quốc tế, được điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý.

Hướng dẫn bảo vệ quyền riêng tư và dịch chuyển dữ liệu cá nhân giữa các quốc gia (1980) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Hiệp ước bảo vệ dữ liệu cá nhân liên quan đến xử lý tự động dữ liệu cá nhân (1981) của Hội đồng châu Âu là những văn bản đầu tiên đưa ra khái niệm “Dữ liệu cá nhân” (personal data) và gắn nó với bảo vệ quyền riêng tư. Với cách tiếp cận đó, đến nay, nhiều văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các quốc gia đã đưa ra một số thuật ngữ tương đồng. Phổ biến nhất, thuật ngữ DLCN, Dữ liệu nhận dạng cá nhân (personally identifiable data – PID) được sử dụng phổ biến ở châu Âu. Thuật ngữ Thông tin nhận dạng cá nhân (personally identifiable information - PII) được sử dụng phổ biến ở Mỹ. Thuật ngữ TTCN được sử dụng ở Úc, Nhật Bản, Canada và một số nước châu Á… Tuy nhiên, khái niệm giữa các văn bản vẫn còn sự khác biệt nhất định. Hướng dẫn bảo vệ quyền riêng tư và dịch chuyển dữ liệu cá nhân giữa các quốc gia (1980); Hiệp ước bảo vệ cá nhân liên quan đến xử lý tự động dữ liệu cá nhân (1981); Chỉ thị bảo vệ cá nhân liên quan đến xử lý và dịch chuyển tự do dữ liệu cá nhân của Nghị viên châu Âu (1995) đưa ra 3 khái niệm khác nhau về DLCN. Hay khái niệm TTCN trong Đạo luật về Quyền riêng tư của Úc năm 1998 và trong Khuôn khổ chung về quyền riêng tư (2015) của APEC cũng không giống nhau.

Ví dụ: Đối với số nhận dạng trực tuyến của cá nhân (như địa chỉ IP, MAC, cookie…), nếu theo quy định của Mỹ thì không phải là PII nhưng theo quy định của châu Âu và Úc thì thuộc DLCN. Tuy vậy, tất cả các thuật ngữ, khái niệm trên đều có điểm chung là thu hẹp phạm vi khái niệm TTCN truyền thống theo một số đặc điểm chung là:

Tính cá biệt (nhân thân) - hiện thực (pháp lý) của chủ thể thông tin. Tức là, nội dung thông tin đó phải liên quan, thuộc về một cá nhân nhất định (không phải là thông tin của người khác) và cá nhân đó phải là một con người tự nhiên đang sống. Tiêu chí này nhằm loại trừ những thông tin không phải của cá nhân (như thông tin của tổ chức), thông tin của người đã chết, của người máy, người nhân bản… hoặc những thông tin cá nhân nhưng không phải của cá nhân đó. Tính riêng tư quyết định nhu cầu bảo vệ - gắn với quyền riêng tư. Tính hiện thực nhằm xác định được chủ thể trong một quan hệ pháp luật về bảo vệ TTCN nhất định, vì nếu không xác định được chủ thể trong quan hệ pháp lý thì không thể bảo vệ.

Tính xác thực – liên kết (khả truy) của nội dung thông tin. Tức là, nội dung thông tin phải có thực (kể cả tin thật, tin giả) và con người có thể nhận biết được (trực tiếp hoặc gián tiếp). Đồng thời và quan trọng hơn, từ một hoặc liên kết các thông tin đó thì con người (chủ yếu là để thiết chế nhà nước) có thể xác định, nhận dạng được đó là cá nhân cụ thể nào trong xã hội (nhằm quản lý, theo dõi được danh tính cá nhân). Tiêu chí này loại trừ những thông tin mà pháp luật không cần hoặc không thể bảo vệ như: thông tin không tồn tại, không thể nhận biết, thông tin ẩn danh hay những thông tin quá phổ biến, phổ thông của cá nhân mà không thể chỉ dựa vào nó để xác định, nhận dạng được cá nhân đó là ai.

Tính đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện của TTCN. Tức là, TTCN phát sinh từ nhiều mối quan hệ của cá nhân và thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội như các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, giáo dục, y tế, CNTT, viễn thông, an ninh… Đồng thời, TTCN có thể được chứa đựng trong nhiều loại hình của vật mang tin như trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác theo quy định của pháp luật.

Nhưng 2 tiêu chí trên là chưa đủ, chưa thể xác định chính xác thông tin nào là TTCN được pháp luật bảo vệ. Bởi, các khái niệm mang tính khái quát rất cao, trong khi thông tin liên quan đến cá nhân trên thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và tuỳ thuộc vào tình huống, bối cảnh mà từ thông tin đó có thể hoặc không thể xác định được cá nhân đó là ai trong xã hội. Ví dụ: Đối với thông tin “họ và tên” thì thường không đủ để xác định được người có tên đó là ai nhưng nếu kết hợp với các thông tin khác như thời gian, địa điểm mua sắm hoặc là tên “độc nhất vô nhị” thì có thể nhận diện, xác định được cá nhân đó là ai trong xã hội. Vì vậy, các văn bản pháp lý còn đưa ra thêm một số chỉ dẫn cụ thể hơn.

Ví dụ: Chỉ thị bảo vệ cá nhân liên quan đến xử lý và dịch chuyển tự do DLCN (1995) đưa ra những đặc trưng về bản sắc vật lý, sinh lý, tinh thần, kinh tế, văn hóa hoặc xã hội của cá nhân. Hay Hiệp ước bảo vệ cá nhân liên quan đến xử lý tự động DLCN (1981) liệt kê các thông tin cá nhân gồm tên, số nhận dạng, dữ liệu vị trí, số nhận dạng trực tuyến hoặc một hoặc nhiều yếu tố cụ thể về vật lý, sinh lý, di truyền, tinh thần, kinh tế, văn hóa hoặc bản sắc xã hội của người tự nhiên đó. Cụ thể hơn, ở Nhật Bản đưa ra 10 nhóm với rất nhiều loại TTCN trong từng nhóm, gồm: (1) Mô tả về con người (Tên, tuổi, nơi sinh, giới tính, cân nặng, màu mắt, dấu vân tay…); (2) Số nhận dạng (Số y tế, số bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng…; (3) Dân tộc (quốc tịch, tộc người, màu da…); (4) Sức khỏe (đặc điểm thể chất, tinh thần, các bệnh lý, nhóm máu, mã AND….); (5) Tài chính (thu nhập, hợp đồng, thói quen mua bán…); (6) Việc làm (hồ sơ việc làm, trụ sở công ty, chức vụ…); (7) Tín dụng (sổ tiết kiệm, hồ sơ vay, …); (8) Hình sự (tiền án, tiền sự…); (9) Đời sống (tính cách, địa vị xã hội, tình trạng hôn nhân, tôn giáo…); (10) Giáo dục (trường học, bằng cấp…).

Khái niệm Thông tin cá nhân trong pháp luật Việt Nam

Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về “Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước” là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm TTCN mang tính khái quát. Khoản 5 Điều 3 Nghị định này quy định: Thông tin cá nhân là thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm ít nhất nội dung trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số hộ chiếu. Những thông tin thuộc bí mật cá nhân gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác. Có thể thấy, dù chưa chính xác, đầy đủ nhưng khái niệm TTCN trên đã có cách tiếp cận đúng và dần tiệm cận với các khái niệm được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế.

Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa thống nhất về thuật ngữ sử dụng cũng như chưa đưa ra được khái niệm TTCN một cách đầy đủ, chính xác. Vẫn còn một số thuật ngữ như: thông tin số, thông tin riêng, TTCN trên môi trường mạng (Luật CNTT 2006); thông tin về bí mật đời tư, dữ liệu (Luật giao dịch điện tử 2005); thông tin riêng (Luật viễn thông 2009); TTCN, dữ liệu về TTCN (Luật ATTTM 2015).… Trong các thuật ngữ pháp lý trên, chỉ có một số được định nghĩa, giải thích trong các văn bản pháp luật; số còn lại chỉ được sử dụng mà không giải thích, định nghĩa. Ngay cả khái niệm TTCN được ghi nhận trong Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 – được coi là luật chuyên ngành thì cũng chỉ quy định hết sức chung chung, mang tính khái quát, thiếu tính đầy đủ, cụ thể. Khoản 15, Điều 3 Luật này quy định TTCN là thông tin gắn với việc xác định danh tính của một người cụ thể. Với quy định này, rất khó có thể xác định thông tin nào của cá nhân là TTCN được pháp luật bảo vệ.

Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi đề nghị sử dụng thống nhất một thuật ngữ pháp lý Thông tin cá nhân hoặc Dữ liệu cá nhân – là những điều, tin tức có nội dung liên quan, thuộc về một con người tự nhiên và được ghi nhận, thể hiện trong các vật mang tin do cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tạo ra mà từ việc sử dụng một hoặc kết hợp nhiều điều, tin tức đó, có thể nhận diện, xác định được con người đó trong xã hội. TTCN bao gồm nhưng không chỉ giới hạn những nhóm thông tin sau đây:

- Nhóm thông tin riêng: Thông tin mô tả tự nhiên (sinh trắc học; dấu vân tay, di truyền…); Thông tin nhận dạng (Số y tế; Số bảo hiểm xã hội; Số an sinh xã hội; Thông tin về dân tộc/chủng tộc (Chủng tộc; Màu da…); Thông tin về sức khỏe (Điều trị y tế/Khám sức khỏe; Hồ sơ bệnh án; Tình trạng khuyết tật…); Thông tin về tài chính (Thu nhập/Hồ sơ thu nhập; Hồ sơ nợ…); Thông tin tín dụng (Hồ sơ tín dụng; Khả năng tín dụng…); Thông tin về việc làm (Nghề/công việc nhạy cảm hay bí mật; Đánh giá năng lực; Khen thưởng/kỷ luật…); Thông tin hình sự (Lý lịch tư pháp; Hồ sơ tội phạm; Tiền án, tiền sự…); Thông tin về giáo dục (Lịch sử giáo dục; Hồ sơ học bạ...).

- Nhóm thông tin về đời sống riêng tư: Thông tin về nguồn gốc dân tộc, nguồn gốc xã hội; Thông tin về sức khỏe; Thông tin về đời sống, tư tưởng, tinh thần (Tính cách cá nhân, Danh tiếng chung, Đặc điểm cá nhân, Địa vị xã hội, Tình trạng hôn nhân, Khuynh hướng tình dục (như quan hệ đồng tính/song tính), Niềm tin lương tâm, Tôn giáo, Tư tưởng tôn giáo, Tín ngưỡng, Tư tưởng chính trị, Tư duy chính trị, Niềm tin chính trị, Quan điểm chính trị, Thành viên công đoàn, Quan điểm cá nhân, Sở thích cá nhân, Quan điểm hoặc ý kiến của người khác về cá nhân...).

- Nhóm thông tin về gia đình: Thông tin về đặc tính sức khỏe (Lịch sử sức khỏe gia đình, Thông tin bệnh di truyền); Thông tin về bí mật gia đình (Con riêng mà chỉ người trong gia đình mới biết, Con nuôi chỉ bố mẹ mới biết, Danh tính của bố đứa trẻ chỉ người vợ biết…); Thông tin về dòng họ, gia tộc (Nguồn gốc, lịch sử, gia phả; Thông tin liên quan đến chính trị, tôn giáo của dòng họ…).

TS. Lê Minh Hồng, TS. Đỗ Tiến Dũng (Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội)