Pháp muốn chiến thắng để nhất bảng và khẳng định vị thế ứng viên vô địch, trong khi Ba Lan hết động lực vì đã bị loại trước lượt cuối bảng D Euro 2024.

Lựa chọn pháp luật dựa trên điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam

Theo quy định tại Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015 về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, theo đó pháp luật áp dụng có thể do các bên lựa chọn (khoản 2). Tuy nhiên, trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng thì pháp luật áp dụng sẽ là điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam (theo khoản 1). Theo khoản 1 thì trong trường hợp này, điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng hơn so với luật Việt Nam.

Yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế

Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015, các yếu tố nước ngoài được xác định cụ thể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

Về chủ thể: Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Ví dụ: Công dân Việt Nam kết hôn với công dân Hoa Kỳ; Người Việt Nam mua hàng của công ty Thái Lan…

Về khách thể: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ đó ở nước ngoài. Ví dụ: Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn người Việt Nam về bất động sản tại nước ngoài…

Về nội dung: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài. Ví dụ: Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn người Việt nam về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ ở nước ngoài…

TasLaw cung cấp dịch vụ tư vấn hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn hợp đồng có yếu tố nước ngoài, được kiểm chứng qua những Quý khách hàng luôn tin tưởng và hài lòng với chất lượng dịch vụ. Taslaw xin cam kết sẽ đem đến cho Quý khách hàng những dịch vụ tận tâm, chuyên nghiệp nhất về tư vấn hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Các dịch vụ tư vấn của Taslaw bao gồm:

Tư vấn chi tiết các quy định pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Tham gia đàm phán cùng Quý khách hàng để đảm bảo quyền lợi về mặt pháp lý

Tham gia soạn thảo hợp đồng theo yêu cầu của Quý khách

Giải quyết các vấn đề tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng

Địa chỉ: Số 4 ngách 56 ngõ 1 Đại Linh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

BP - Quy định về năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài, tại Điều 765 của Bộ luật dân sự hiện hành có quy định như sau: 1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 điều này. 2. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo suy nghĩ của cá nhân tôi, cách quy định như trên là không đầy đủ và không phù hợp. Bởi vì, trong giao dịch dân sự có pháp nhân tham gia với tư cách là một bên quan hệ, việc xác định xem một pháp nhân có tư cách thực hiện một giao dịch dân sự hay không và thực hiện như thế nào phải căn cứ vào quy chế riêng của pháp nhân chứ không phải căn cứ vào năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân. Quy chế riêng của pháp nhân bao gồm: Thứ nhất là những giao dịch dân sự mà một pháp nhân có thể tham gia (cụ thể ở nước ta hiện nay, điều này được ghi nhận trong giấy phép kinh doanh của pháp nhân). Thứ hai, trình tự thành lập và giải thể pháp nhân. Thứ ba, đại diện của pháp nhân theo pháp luật (điều này được quy định trong giấy phép kinh doanh của pháp nhân). Thứ tư, thanh lý tài sản của pháp nhân. Theo pháp luật của phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện nay, quy chế riêng của pháp nhân được xác định theo pháp luật mà pháp nhân có quốc tịch.

Ngoài ra, theo ý kiến của tôi thì cần bỏ Khoản 2, Điều 765: Vì thứ nhất là nếu hiểu năng lực pháp luật của pháp nhân là những trường hợp giao dịch dân sự mà pháp nhân có thể tham gia theo quy định của pháp luật thì phải được xác định theo pháp luật quốc gia mà pháp nhân có quốc tịch. Thứ hai, khi tham gia vào các quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài tại quốc gia sở tại, pháp nhân nước ngoài có một số quyền nhất định. Đó là, các pháp nhân nước ngoài có thể thực hiện một số hợp đồng không cần có sự cho phép đặc biệt. Thông thường đó là các hợp đồng thương mại với các cá nhân và pháp nhân quốc gia sở tại có quyền ký kết các hợp đồng đó. Trong khi thực hiện các hợp đồng trên, pháp nhân nước ngoài không thể viện dẫn vào những hạn chế về quyền hạn của đại diện pháp nhân mà hạn chế đó xa lạ với pháp luật của các quốc gia nơi đại diện của pháp nhân thực hiện hợp đồng; pháp nhân nước ngoài có quyền bảo vệ lợi ích của mình tại tòa án quốc gia sở tại không cần một giấy phép đặc biệt.

Điều này được thừa nhận ở các quốc gia vì mục đích bảo vệ lợi ích hợp pháp của pháp nhân nước ngoài cũng như nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển các quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, việc thừa nhận đó là cần thiết để đảm bảo cho các pháp nhân quốc gia sở tại cũng có quyền như vậy ở quốc gia nước ngoài tương ứng; các pháp nhân nước ngoài có quyền đặt các chi nhánh đại diện theo trình tự của pháp luật quốc gia sở tại; các pháp nhân nước ngoài có quyền tham gia vào một số lĩnh vực nhất định theo các giấy phép đặc biệt (trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài). Như vậy, việc quy định như trên là không cần thiết và không phù hợp. Do đó, điều này cần được sửa lại như sau: “Quy chế riêng của pháp nhân được xác định theo pháp luật mà pháp nhân có quốc tịch”.

Như vậy, cách quy định này vừa khách quan và công bằng với cả pháp nhân Việt Nam và pháp luật nước ngoài, vừa khắc phục được chỗ hổng của pháp luật nước ta. Đồng thời, điều này sẽ vừa thúc đẩy các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát triển vừa nâng cao uy tín trật tự pháp lý của nước ta. Bởi, trong lĩnh vực pháp luật dân sự, việc điều chỉnh pháp luật càng đảm bảo sự tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể bao nhiêu thì lợi ích chính đáng của các bên càng được bảo vệ tốt bấy nhiêu.

Giới hạn về hậu quả áp dụng pháp luật nước ngoài và chứng minh pháp luật nước ngoài

Theo quy định tại Điều 670 Bộ luật Dân sự 2015 về trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài, có 02 trường hợp:

Khi hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Theo đó, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 4 Bộ luật Dân sự 2015.

Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.

Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng thay thế.

Quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài là một chế định trong quan hệ pháp luật hợp đồng có yếu tố nước ngoài được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, thể hiện ở cả pháp luật một số quốc gia và hệ thống pháp luật quốc tế.

Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, theo đó pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam. Nếu trong các điều ước quốc tế đó hoặc luật Việt Nam có quy định các bên được lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài đó do các bên thỏa thuận. Ngoài ra, trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo Điều 664 thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó (Nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được giải thích tại khoản 2 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015).

Ngoài ra, theo Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015, các bên trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ các trường hợp tại khoản 4, 5 và 6 Điều này (Đối tượng của hợp đồng là bất động sản hoặc pháp luật được các bên lựa chọn trong quan hệ hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng mà ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng).