International Trade Là Ngành Gì
Marketing thương mại (tiếng Anh: Trade Marketing) là quá trình tổ chức, quản lí và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức.
Đặc điểm của Thương mại song phương
Mục tiêu của các hiệp định thương mại song phương là mở rộng khả năng tiếp cận giữa thị trường giữa hai quốc gia với nhau và giúp tăng trưởng kinh tế.
Các hoạt động kinh doanh được tiêu chuẩn hóa trong các khu vực mậu dịch chung, giúp ngăn không cho một quốc gia đánh cắp các sản phẩm sáng tạo khác, bán phá giá hàng hóa với chi phí nhỏ hơn hoặc sử dụng các khoản trợ cấp không công bằng.
Các hiệp định thương mại song phương đều tiêu chuẩn hóa các qui định, tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường.
Việt Nam đã kí các hiệp định thương mại song phương với các nước như: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU,…
Ưu điểm và nhược điểm của Thương mại song phương
So với các hiệp định thương mại đa phương, các hiệp định thương mại song phương dễ dàng được đàm phán, bởi vì chỉ có hai quốc gia thỏa thuận.
Các hiệp định thương mại song phương được khởi xướng và gặt hái lợi ích thương mại nhanh hơn các hiệp định đa phương.
Khi các cuộc đàm phán cho một hiệp định thương mại đa phương không thành công, nhiều quốc gia sẽ thay thế bằng đàm phán các hiệp định song phương.
Tuy nhiên, các thỏa thuận mới thường dẫn đến các thỏa thuận cạnh tranh giữa các quốc gia khác, loại bỏ những lợi ích mà hiệp định thương mại tự do (FTA) đã trao đổi giữa hai quốc gia ban đầu.
Thương mại song phương cũng giúp mở rộng thị trường hàng hóa cho một quốc gia.
Ví dụ, Mỹ mạnh mẽ theo đuổi các hiệp định thương mại tự do với một số quốc gia dưới thời chính quyền Tổng thống Bush trong những năm đầu thập niên 2000. Ngoài việc tạo ra một thị trường cho hàng hóa Mỹ, việc mở rộng kí kết các hiệp định giúp truyền bá tư tưởng tự do hóa thương mại và khuyến khích mở cửa biên giới thương mại.
Tuy nhiên, thương mại song phương có thể làm lệch thị trường của một quốc gia khi các tập đoàn đa quốc gia lớn, có vốn và nguồn lực lớn muốn mở rộng qui mô, bước vào thị trường mới và chi phối những người chơi nhỏ hơn. Do đó, sau này các công ty nhỏ hơn phải đóng cửa vì bị cạnh tranh đánh bại.
Cán cân thương mại (Balance of Trade)
Cán cân thương mại trong tiếng Anh là Balance of Trade. Cán cân thương mại phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Cán cân thương mại được thể hiện bằng xuất khẩu ròng (Net Exports)
NX (Net exports): xuất khẩu ròng
Hàm xuất khẩu theo sản lượng: X = f(Y) phản ánh lượng tiền mà nước ngoài dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ trong nước, tương ứng với từng mức sản lượng (trong nước) khác nhau.
Như vậy, nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người nước ngoài, có nghĩa là chủ yếu không liên quan đến thu nhập và sản lượng của nền kinh tế trong nước.
Do vậy, chúng ta có thể coi nhu cầu xuất khẩu là độc lập, không phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập trong nước.
Hàm nhập khẩu theo sản lượng: IM = f(Y) phản ánh lượng tiền mà người trong nước dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, tương ứng với mức sản lượng (trong nước) khác nhau.
Nhu cầu nhập khẩu từ bên ngoài có thể là nguyên vật liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng của nhân dân...
Như vậy, nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng và thu nhập của nước nhập khẩu.
Hàm nhập khẩu là một hàm của thu nhập:
MPM (Marginal Propensity to Import) là xu hướng nhập khẩu biên. Nó cho biết khi thu nhập tăng lên một đơn vị thì công dân trong nước muốn chi thêm cho hàng nhập khẩu là bao nhiêu. Nói cách khác: MPM = ΔIM / ΔY
Nguồn: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính
Cán cân thương mại của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba tình huống: thặng dư, thâm hụt và cân bằng.
Hình 3.14 cho biết: nếu nền kinh tế tạo ra sản lượng tại điểm Y1 thì cán cân thương mại thặng dư (X > IM), tạo ra sản lượng Y0 thì cán cân thương mại cân bằng và tại mức sản lượng là Y2 thì cán cân thương mại thâm hụt.
Như vậy, khi mức xuất khẩu và nhập khẩu không thay đổi thì trong trường hợp sản lượng quốc gia có xu hướng tăng lên, cán cân thương mại sẽ có khuynh hướng thâm hụt cao.
Điều này có nghĩa là trong quá trình phát triển kinh tế, cần phải dịch chuyển đường xuất khẩu lên phía trên thì gia tăng sản lượng sẽ làm giảm thâm hụt thương mại.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính)
Thương mại song phương (tiếng Anh: Bilateral Trade) là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.
Thương mại song phương trong tiếng Anh là Bilateral Trade.
Thương mại song phương là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.
Hai nước sẽ được hưởng giảm hoặc loại bỏ thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu và các rào cản thương mại khác để khuyến khích thương mại và đầu tư.
Bản chất của Marketing thương mại
Mục tiêu của marketing thương mại cuối cùng vẫn phải là đảm bảo lợi nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên thị trường.
Nhưng, mục tiêu trực tiếp của marketing thương mại có thể được xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ được tốt nhất các sản phẩm của doanh nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận.
Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải chấp nhận rủi ro. Khả năng không tiêu thụ (bán) được sản phẩm luôn luôn xảy ra và thông thường là rất lớn.
Doanh nghiệp có thể gặp may ở từng thương vụ, nhưng xét trong tổng thể - nhu thực tiễn đã chứng minh – hiểm hoạ phá sản luôn xuất hiện khi mà "bán hàng là một bước nhảy nguy hiểm chết người".
Marketing thương mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại.
Người ta đã từng đưa ra và ứng dụng nhiều cách thức khác nhau để thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động thương mại. Nhưng, trước khi có hệ thống lí thuyết marketing thương mại, các cách thức đó chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh doanh.
Thực chất của marketing thương mại là xác định lại cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và khách hàng trong hoạt động kinh tế.
Từ đó, sử dụng một cách đồng bộ và khoa học quan điểm lí thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Marketing thương mại, Chủ biên PGS. TS. Nguyễn Xuân Quang, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007)
Cấm vận thương mại (tiếng Anh: Trade Embargo) là biện pháp cấm hoàn toàn quan hệ thương mại (xuất, nhập khẩu) đối với một quốc gia nào đó.
Cấm vận thương mại đối với người dân các quốc gia
Một khía cạnh thực tế của các lệnh cấm vận và trừng phạt là sự thể hiện của Chính phủ với người dân rằng các nhà lãnh đạo của họ sẽ có hành động chống lại mối đe dọa. Tuy nhiên, nạn nhân của các lệnh trừng phạt thường không phải là những người nắm quyền, mà là công dân của quốc gia đó bị ảnh hưởng.
Đây là trường hợp ở Iraq. Được dẫn dắt bởi nhà độc tài Saddam Hussein đã chứng minh sự thờ ơ của họ đối với phúc lợi của công dân, các nhà lãnh đạo quyền lực của Iraq đã thỏa thuận với các quốc gia khác về hàng hóa và dịch vụ trong các lệnh trừng phạt kinh tế. Kết quả là, họ được hưởng lợi cá nhân trong khi sức khỏe, sức mạnh và cơ sở hạ tầng của Iraq sụp đổ.
Quốc gia từng phát triển và thịnh vượng đã trở thành một vùng đất nơi các bệnh dịch đã bị xóa bỏ lại quay lại và trẻ em thì đang chết dần. Do kết quả của việc thương mại hợp pháp bị ngăn chặn, người dân chịu cảnh nghèo đói và phụ thuộc vào viện trợ lương thực từ Liên Hợp Quốc và giáo dục thì mai một.
Ít nhất 500.000 trẻ em đã phải chịu đựng và tử vong trong thời gian các lệnh trừng phạt kinh tế do Liên Hợp Quốc áp đặt và quốc gia này vẫn chưa được xây dựng lại hoàn toàn.
Như lịch sử ghi nhận, các lệnh cấm vận thương mại có sức mạnh ngăn chặn chiến tranh nhưng có khả năng gây ra hậu quả không lường trước được.
(Tài liệu tham khảo: investopedia, borgenproject, myaccountingcourse)
Cán cân thương mại (tiếng Anh: Balance of Trade) phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Cán cân thương mại được thể hiện bằng xuất khẩu ròng (Net Exports). Cán cân thương mại của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba tình huống: thặng dư, thâm hụt và cân bằng.