D. Toàn bộ các quy phạm pháp luật về các quan hệ lao động trong đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trong cả nước và lao động nước ngoài ở Việt Nam

Gia công xuôi : Nhận gia công cho đối tác nước ngoài (Bao gồm cả DN nội địa nhận gia công cho doanh nghiệp chế xuất)

Gia công hàng hoá xuất nhập khẩu hay còn gọi là gia công quốc tế ( International Processing) là các hoạt động sản xuất, chế biến, lắp ráp, đóng gói… nhằm chuyển hoá nguyên liệu, phụ liệu, bán thành phẩm theo các yêu cầu của bên đặt gia công. Trong đó, bên đặt gia công là pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài (kể cả các doanh nghiệp trong khu chế xuất), bên gia cônglà các doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao…).

Bên đặt gia công cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Bên gia côngtrong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Toàn bộ sản phẩm làm ra bên gia côngsẽ giao lại cho bên đặt gia công.

​4. Lựa chọn địa điểm làm thủ tục Hải quan.

Căn cứ điều 58 thông tư 38/2015/TT-BTC, khi thực hiện hợp đồng gia công chúng ta được phép chọn một trong những chi cục sau:

a) Đối với hàng hóa là nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị nhập khẩu để gia công; nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu: Tổ chức, cá nhân được lựa chọn làm thủ tục nhập khẩu tại 01 Chi cục Hải quan sau đây:

a.1) Chi cục Hải quan nơi tổ chức, cá nhân có trụ sở chính hoặc trụ sở chi nhánh hoặc cơ sở sản xuất;

a.2) Chi cục Hải quan cửa khẩu hoặc Chi cục Hải quan cảng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa được thành lập trong nội địa;

a.3) Chi cục Hải quan quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu thuộc Cục Hải quan nơi có cơ sở sản xuất hoặc nơi có cửa khẩu nhập.

Việc lựa chọn chi cục Hải quan là tùy ý doanh nghiệp, sau khi lựa chọn được nơi thực hiện thủ tục Hải quan, chúng ta cần thông báo cơ sở sản xuất.

Điều 56. Thông báo cơ sở gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu; nơi lưu giữ nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, sản phẩm xuất khẩu; hợp đồng, phụ lục hợp đồng gia công

Thế nào được coi là một bước gia công:

Gia công hay sản xuất xuất khẩu đều giống nhau về quy trình đó là nhập nguyên vật liệu về, sản xuất ra sản phẩm và xuất khẩu. Theo đó, hàng hóa gia công phải trải qua ít nhất một công đoạn của quy trình sản xuất; để được coi là một bước gia công, phải làm biến đổi bản chất của nguyên vật liệu đầu vào. Vì vậy, những bước như kiểm đếm (sorting) sẽ không được coi là 1 bước gia công mà đó là 1 ngành dịch vụ.

Gia công được hiểu là việc bỏ sức để làm ra một sản phẩm mới hay thực hiện một số công đoạn trong quá trình sản xuất trên cơ sở nguyên phụ liệu hay các bán thành phẩm để tạo ra một sản phẩm nào đó.

Theo luật Thương mại Việt Nam năm 2005, Điều 178: “Gia công trong thương mại là hoạt động kinh doanh sản xuất thương mại, Theo đó bên thuê gia công cung cấp 1 phần hoặc toàn bộ nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, hoặc có thể cả chuyên gia, tài liệu kỹ thuật để bên nhận gia công thực hiện một phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất ra sản phẩm và nhận về thù lao”

Gia công chuyển tiếp :Sản phẩm hợp đồng gia công này là nguyên vật liệu của hợp đồng gia công khác.

Hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của Luật thương mại và phải tối thiểu bao gồm các điều khoản sau:

1. Tên, địa chỉ của các bên ký hợp đồng và bên gia công trực tiếp.

2. Tên, số lượng sản phẩm gia công.

4. Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán.

5. Danh mục, số lượng, trị giá nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu và nguyên liệu, phụ liệu, vật tư sản xuất trong nước (nếu có) để gia công; định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; định mức vật tư tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu trong gia công.

6. Danh mục và trị giá máy móc, thiết bị cho thuê, cho mượn hoặc tặng cho để phục vụ gia công (nếu có).

7. Biện pháp xử lý phế liệu, phế thải, phế phẩm và nguyên tắc xử lý máy móc, thiết bị thuê, mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa sau khi kết thúc hợp đồng gia công.

8. Địa điểm và thời gian giao hàng.

9. Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa.

10. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng.

EXIM CONSULTING & TECHNOLOGY JSC

– VP Hà Nội: Số 7 Tôn Thất Thuyết, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội. – Hotline: 0972 181 589 – Email: [email protected]

Ông Đào Ngọc Dung - Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH nhấn mạnh khi báo cáo giải trình, tiếp thu một số vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm tại phiên thảo luận ở Hội trường chiều 17/6 về dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi).

Người đứng đầu ngành LĐ-TB-XH cho biết, Luật hiện hành từ khi ra đời đã từng bước đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực. Hàng năm có khoảng hơn 100.000 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Hiện có 580.000 người đang lao động ở 43 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Nhấn mạnh đây là lĩnh vực thời gian được quan tâm nên phát triển tương đối nhanh, ông Đào Ngọc Dung dẫn số liệu cho thấy Philippines coi đây là ngành công nghiệp, đào tạo cơ bản, bình quân đưa đi lao động 1 triệu người/1 năm với nguồn thu bình quân cho ngân sách khoảng 20 tỷ USD. Việt Nam khoảng 5 tỷ USD và tỉnh cao nhất xấp xỉ 300 triệu USD/1 năm.

Về thị trường, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH cho biết những thị trường truyền thống tiếp tục được duy trì như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Chúng ta cũng mở được một số thị trường mới như Đức, Ba Lan, Rumania và gần đây là Hungaria.

Một trong những hạn chế được chỉ ra từ đầu nhiệm kỳ là tình trạng lao động bỏ trốn ở lại bất hợp pháp cũng được cải thiện. Như thị trường Hàn Quốc, với nhiều giải pháp được hai bên thực hiện thì tỷ lệ bỏ trốn từ 56% đến nay còn 24%, thấp hơn so với cam kết với nước bạn là 30% và thấp hơn nhiều quốc gia.

Tuy vậy, theo ông Đào Ngọc Dung, vẫn còn nhiều thách thức, yếu kém, nhất là tình trạng môi giới bất hợp páp, vi phạm hợp đồng, nhiều trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng hình ảnh Việt Nam, đối với huyện nghèo có quan tâm nhưng số lượng lao động được đưa đi không nhiều...

Nhấn mạnh Bộ cùng các địa phương thời gian qua có nhiều sự chấn chỉnh, người đứng đầu ngành LĐ-TB-XH cho biết đã xử phạt tới 118 doanh nghiệp trong tổng số 459 doanh nghiệp. Do đó, tình hình có nhiều tiến bộ.

Về hình thức, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết hiện nay các hình thức: Lao động đi qua doanh nghiệp được cấp giấy phép của Bộ; đi qua doanh nghiệp trúng thầu nhận công trình ở nước ngoài; qua doanh nghiệp và cá nhân tổ chức đàu tư ra nước ngoài; theo hợp đồng lao động tự do được giao kết hợp đồng và đăng ký với cơ quan quản lý lao động địa phương.

Đề cập lao động ở nước ngoài thông qua kỳ nghỉ, ông Đào Ngọc Dung nhấn mạnh phải đưa vào luật và hiện đang thí điểm ở thị trường Australia. Năm 2020 có 1.500 trường hợp được đi, đăng ký qua Bộ và sau khi được Sứ quán ở Australia nhất trí thì quá trình du lịch mới được lao động, khác với việc ai đó sang nước bạn rồi mới tìm kiếm việc làm.

Một hình thức mới xuất hiện cách đây 2 năm là giữa các địa phương của Việt Nam với địa phương ở nước khác hợp tác lao động ngắn hạn và hết thời vụ thì trở về. UBND tỉnh ký kết thì phải có cơ quan đứng ra giúp UBND tỉnh là đơn vị sự nghiệp, chính là Trung tâm Lao động trực thuộc tỉnh hay thuộc Sở LĐ-TB-XH và đây không phải pháp nhân mới. Đơn vị này tương đương như đơn vị sự nghiêp công lập ở bộ ngành mà luật cho phép.

“Về bản chất, ngoài 5 loại hình trên thì không bị luật này chi phối vì nguyên tắc là phải có hợp đồng. Nếu không theo hợp đồng là như bất hợp pháp, ví dụ như 39 người gặp nạn ở Anh” – ông Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, đồng thời cho biết Ban soạn thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu về chính sách, nhất là với lao động sau khi từ nước ngoài về, thời hạn giấy phép, tiêu chuẩn thành lập doanh nghiệp...

“Chúng tôi muốn Quốc hội ủng hộ từ nay trở đi không dùng khái niệm “xuất khẩu lao động” mà sử dụng từ trong luật này để điều chỉnh. Ngoài ra, Luật quy định rõ không có sự tham gia của nước ngoài, không có đóng góp cổ phần, góp vốn, sở hữu hay đứng pháp nhân lĩnh vực này” – Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nói./.